Muốn có trà ngon người ta phải ướp từ những loại trà khô như là trà mộc, trà xanh. Ướp trà rất kỳ công phối hợp tinh tế giữa phong cách tao nhã. Ướp trà thường dùng các loại hoa sen, hoa cúc, hoa bưởi, hoa lài, hoa sói. Mỗi loại hoa làm nên một loại trà có một hương vị khác nhau. Ðôi khi người ta còn ướp với cam thảo hay sâm để khi uống trà sẽ cảm thấy vị ngọt ở cổ họng và tinh thần phấn chấn hơn.
Trà ướp hoa là hội tụ đỉnh cao của cái tinh tế, phong cách tao nhã, thanh lịch và sành điệu của người thưởng trà. Trong đó, hoa sen là thứ hoa thông dụng nhất mà cũng là quý giá nhất dùng để ướp trà ngon nhất. Ðiều này được nhiều nhà trà học lý giải “bởi quan niệm về hoa sen trong đạo Phật của người Á Ðông. Hoa sen vốn dĩ là thứ hoa rất thanh cao mọc lên từ bùn , điều đó tương tự như chữ Danh mà người quân tử rất coi trọng ”. Hương hoa sen là những gì tinh tuý nhất của đất trời tụ lại. Vì vậy, trà ướp sen là một vật phẩm rất quý giá, xưa kia chỉ dành cho những vua chúa và những gia đình quyền quý. Còn theo Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác (1720-1791) thì “Cây sen hoa mọc từ dưới bùn đen mà không bị bùn làm ô nhiễm mùi bùn, được khí thơm của trời đất nên củ sen, hoa sen, lá sen… đều là những vị thuốc rất quý”.
Sen để ướp trà phải dùng loại sen bách diệp ở Hồ Tây, phía bên trong các cánh hoa lớn có hàng trăm cánh nhỏ ôm sát vào nhau, che úp nhụy hoa, gạo sen và gương sen. Mua sen bách diệp về,(hoa sen phải hái trước lúc bình minh, phải chọn những ngày nắng ráo, không hái vào ngày mưa ) bóc từng lớp cánh sen, kế đến tẽ những hạt trắng ở đầu nhụy hoa (gạo sen), trộn chung với trà, ủ trong vò kín từ một đến hai ngày cho gạo sen quắn lại rồi mới đưa trà lên sấy khô . Phải giữ cho nhiệt độ vừa phải và điều hoà để không mất mùi hoa. Ứơp một kí-lô trà phải dùng từ 1500 đến 2000 bông sen, và phải làm nhiều lần như thế mới dùng được. Công phu là thế nên một ấm trà sen có thể uống hàng chục tuần trà. Nước trong rồi, hương sen thơm ngát. Uống một tách trà vào thấy tinh thần tỉnh táo, thoải mái . Nhiều nghệ nhân về trà còn tiết lộ: “Muốn có trà ngon, chỉ hái những búp trà loại “một tôm duy nhất là trà đinh” và phải hái nhanh, nhẹ nhàng, không để búp bị gãy. Loại trà ngon là sau khi sao phải còn lại một lượng nước nhất định từ 5-7%.
Cụ Nguyễn Tuân ca ngợi kiểu ướp hương trà bằng cách bỏ trà mạn vào bông sen mới nở, buộc lại. Thực ra, cách chơi đó của Cụ Nguyễn vừa rất cầu kỳ vừa không để trà được lâu và hay bị mất hương, chỉ có thể dùng cho lượng trà rất ít và phải để uống ngay.
PHONG CÁCH UỐNG TRÀ CỦA NGƯỜI VIỆT NAM
Người Nhật có lối uống trà rất khác biệt với các dân tộc khác, khi uống trà họ phải tuân thủ một vài nghi thức nên gọi là Trà đạo. Ðối với Trung Hoa và Việt Nam, lối uống trà chỉ được coi như là một nghệ thuật, nghệ thuật thì không cần phải khách sáo hay công thức cầu kỳ.
Phong cách uống trà của Việt Nam không hề bị ảnh hưởng của Trung Quốc hay Nhật Bản như quan niệm cuả nhiều người. Nghệ thuật uống trà nói lên phong cách văn hoá ứng xử của người Việt Nam.Trong gia đình truyền thống, người nhỏ pha trà mời người lớn, phụ nữ pha trà mời các ông. Người ta có thể uống trà trong sự tĩnh lặng suy gẫm như để giao hoà với thiên nhiên, như để tiếp cận giữa con người với môi trường, như để nhận xét . Khi đã trở thành thói quen rồi thì khó mà bỏ được.Trà đồng nghĩa với sự tỉnh thức, sáng suốt, mưu cầu điều thiện, xa điều ác.
Theo truyền tụng, hình thức uống trà được khởi nguồn từ các thầy sư ở chùa chiền gọi là Thiền Trà. Các nhà Sư thường uống trà trước các thời công phu sớm chiều. Cuộc đời trần tục nhiều hệ lụy, trà giúp cho con người tỉnh được mộng trần, rửa được lòng tục, xoá tan cảm giác tĩnh mịch chốn thiền môn. Ngày nay chỉ còn ngôi chuà Từ-Liêm ngoài Bắc là giữ được nghi thức Thiền Trà này.
Sau đó, trà được ưa chuộng trong giới quý tộc, trong cung đình như là một bằng chứng thể hiện sự quyền quý, để phân biệt với giai cấp trong xã hội phong kiến.
Kế đến, trà chinh phục các tầng lớp trung lưu, nhất là các nhà Nho, các tiểu học trò “dài lưng tốn vải ăn no lại nằm”, mượn bộ ấm trà để bàn luận văn chương thi phú, để tiêu khiển giải trí sau những giờ điên đầu vật vã với tứ thư ngũ kinh.
Do đó, uống trà là một lối tiêu khiển thanh đạm được tất cả mọi giới ưa chuộng. Pha trà mời khách cũng phải tốn rất nhiều công phu hàm dưỡng và trở thành một nghi thức. Thưởng trà Việt Nam thật là trân trọng ở cách dâng mời chứa đựng ngụ ý. Dù nắng hay mưa, sớm chiều, buồn hay vui khách không thể từ chối một chén trà trong khi gia chủ trang trọng hai tay dâng mời.
Mời trà là một hành vi biểu hiện phong độ thanh nhã và hiếu khách của hầu hết các gia đình Việt Nam. Kỵ nhất là tiếp khách bằng những tách trà còn đóng ngấn hoen ố nước trà cũ. Cũng không bao giờ tiếp khách bằng một ấm nước trà đã nguội lạnh. Tách trà tiếp khách là thể hiện những tình cảm tối thiểu nhất, không thể tuỳ tiện coi thường, dù không nhất thiết phải là loại trà thượng thượng hạng.
Uống trà cũng phải uống từng ngụm nhỏ, để có thể cảm nhận hết cái dư vị đắng, chát rồi đến thơm ngon cuả trà, cái hơi ấm cuả từng chén trà tỏa vào hai bàn tay ấp ủ nâng chén trong muà đông giá lạnh, làm ấm lòng du khách. Uống trà là một cách biểu thị sự tâm đắc, trình độ văn hoá và cảm tình cùng người đối thoại. Trong ấm trà ngon, người cùng uống tâm đầu ý hợp, dưới ánh trăng thanh gió mát, ngắm khung cảnh tĩnh lặng của núi rừng mà luận bàn những thú vui thế sự thì không còn gì thú vị hơn nữa. Chỉ có những tao nhân mặc khách mới thưởng thức được trọn vẹn cái phong vị cuả cách uống trà này, chứ không phải như kẻ phàm phu tục tử bưng ly trà to tổ bố lên rồi uống ừng ực một hơi hết luôn, người ta gọi là “ngưu ẩm” hay là uống như trâu uống nước.
Ngoài các lối uống trà đơn giản đến cầu kỳ trong các gia đình Việt Nam, các cụ ngày xưa còn có những hình thức hội trà. Ðó là uống trà thưởng xuân, uống trà thưởng hoa, uống trà ngũ hương. Hội trà là tụ họp những người bạn yêu trà cùng chung vui trong các dịp đặc biệt hoặc có hộp trà ngon, hay có một chậu hoa quý hiếm trổ bông, hay trong nhà có cưới hỏi hoặc giỗ chạp.
Thưởng trà đầu xuân là thói quen cuả các cụ phong lưu, khá giả. Trước tết, các cụ tự đi chọn mua các cành mai, đào, thuỷ tiên hay các chậu hoa lan, hoa cúc ở tận các nhà vườn, và chuẩn bị đầy đủ các thứ cần thiết, một thứ quan trọng nhất là một hộp trà hảo hạng. Sáng mồng một, cụ pha một bình trà và ngồi nơi phù hợp nhất, thường là giữa nhà. Cụ ngồi tĩnh tâm, ngắm nhìn những đoá hoa nở rộ rồi thưởng trà. Khoảng 8 giờ sáng, cả đại gia đình sum họp quanh bàn trà chúc thọ cụ và nghe những lời dặn dò của Cụ. Trẻ con thì chờ người lớn lì xì.
Uống trà thưởng hoa quý như hoa Quỳnh, hoa Trà, cũng là cái thú vui của nhiều người. Khi nhà cụ nào cũng có một chậu hoa, chuẩn bị và mời các bạn già tới ngắm hoa, luận bàn thế sự, hay dặn dò con cháu.
Hội trà ngũ hương chỉ giới hạn có năm người thôi. Trên khay trà có năm lỗ trũng sâu, dưới các lỗ trũng đó để năm loại hoa đang độ ngát hương : Sen, Ngâu, Lài, Sói, Cúc. Úp chén trà che kín các hoa lại rồi mang khay để trên nồi nước sôi cho hương hoa bắt đầu xông lên bám vào lòng chén. Pha bình trà cho thật ngon rồi rót đều vào từng chén, mỗi người tham dự sau khi uống trà phải đoán hương trà mình đã uống và nhận xét. Sau mỗi tuần trà lại hoán vị các chén trà để mọi người đều thưởng thức được hết những tinh tuý của những loại hoa.
Địa chỉ mua Chè Thái Nguyên chính gốc
Trà Tiên Lầu là một trong những thương hiệu tâm huyết mang những tinh túy ấy ngày một cao và xa hơn nữa. Để tìm hiểu thêm những sản phẩm chè được phân phối bởi Trà Tiên Lầu, bạn có thể kết nối với chúng tôi theo địa chỉ:
Sn: 407, Đường Hoàng Quốc Việt, Trung Thành, Phổ Yên , Thái Nguyên.
Sđt: 0968.600.070-0982.111.070
Zalo: 0968.600.070
Website: tratienlau.com